Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

MÙA VỌNG : MÙA CỦA NIỀM HÂN HOAN

Hằng năm (năm Phụng vụ) cứ dịp mùa Vọng lại về thì cái sắc màu “tim tím” của phẩm phục phụng vụ đập vào mắt chúng ta trông rất quen mà cũng rất chi là buồn. Phải chăng cái màu tím của phẩm phục phụng vụ mùa Vọng trùng với màu của mùa Chay và những ngày lễ tang, lễ cầu hồn khiến ta dễ xem đó như là biểu thị của sự buồn bã, u sầu? Cũng có thể lắm chứ. Tuy nhiên, xét cho hết ý thì mùa Vọng chẳng có chút gì dáng vẻ buồn bã, u sầu cả. Vì sao? Xin mạn phép trình bày cảm nhận riêng mình.
Mùa Vọng: mùa của niềm vui. Chẳng một đặt hy vọng vào một điều xúi quẩy, vào một nỗi bất hạnh hay một chuyện không may, không lành. Có hơi bị bất thường thì mới ngồi chờ mong những điều ấy xảy đến cho mình. Đã là mong chờ, đã là hy vọng thì ai cũng sẽ hy vọng và chờ mong một sự gì đó may mắn, tốt lành, dĩ nhiên là cho mình, cho người thân. Có thể có trường hợp ngoại lệ, mong điều xấu nhưng nhưng thường là cho kẻ thù. Hội thánh dạy chúng ta: “Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được xem nhhư mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi” (AC 30).
Xưa, Chúa đã đến thế gian “không phải là để lên án thế gian nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu độ” (x.Gio 3,17). Hội Thánh dạy chúng ta rằng mạc khải nên trọn vẹn và hoàn hảo nơi chính Chúa Kitô, cuộc đời và sự nghiệp của Người, những lời giảng dạy của Người, đặc biệt cuộc tử nạn và phục sinh của Người (x.MK số 4; GLCG số 65). Nào chúng ta thử xem Chúa Kitô đến thì những gì đã xảy ra. Chính Chúa minh nhiên khẳng định với các môn đệ của Gioan Tẩy giả: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7,22). Trước đó Ngài cũng đã mặc nhiên nhận vào mình lời Ngôn sứ Isaia loan báo: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng… (Lc 4,18-19). Sau này, thánh Phêrô mạnh dạn minh chứng ở Xêdarê: “quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người giáng phúc thi ân đến đó” (Cvtđ 10, 38). Chúa đến là để ban an bình, ban hạnh phúc. Ngài ban bình an cho chúng ta, một sự bình an không như thế gian ban tặng. Ngài ban hạnh phúc cho ta, hạnh phúc sâu xa và vĩnh cữu mà không một ai có thể cướp mất được. Vì thế, tâm tình phấn khởi hân hoan là tâm tình phải có khi đón chờ Chúa đến. Không chỉ hân hoan mà còn luôn sẵn sàng tỉnh thức. Sao lại không tỉnh thức sẵn sàng khi chờ một niềm vui vô bờ, một hạnh phúc bất tận đang đến với chúng ta.
Xin hầu một câu chuyện bịa như thật: Cảm kích trước tấm lòng anh em cùng tu ngày nào, nhất là tình hiệp nhất, liên đới, bạn Minh nhà ta phấn khởi và không kém phần long trọng tuyên bố: “Nhờ ơn Chúa, mình được may mắn hơn anh em về công ăn việc làm. Dĩ nhiên nhờ thế mà hầu bao của mình ngày càng “căng phồng” lên. Hỏng dám gánh lấy lời chúc dữ của Thầy Giêsu đổ trên đầu những người “lắm của, nhiều tiền”: “Khốn cho các ngươi…” Nay, tôi: Trương lão gia, sau khi bàn luận, thống nhất với bà xã, quyết định như thế này: Mình sẽ trở về quê Việt mừng lễ Giáng Sinh với anh em bạn cùng tu ngày nào. Ngoài hành lý cá nhân bình thường, tôi lận trong lưng 5.000.000,00 USD (năm triệu đô Mỹ). Bạn nào trong số năm người cùng lớp tu ngày xưa đón mình trước ở sân bay Tân Sơn Nhất thì sẽ được tặng một triệu đô la. Mình sẽ về sân bay TSN khoảng đêm 23/12. Giờ giấc chính xác thì không không biết được. Thông báo kết thúc. Trương lão gia xưa nay vốn ngôn hành luôn sánh đôi. “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy”.
Chuyện thật như bịa ở sân bay TSN 18 giờ chiều ngày 23/12.
- Ủa, sao Xuân Long không ở nhà để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, rồi con lo chở vợ chở con đi xưng tội đi chứ, gần lễ rồi mà còn ra chực ở sân bay này làm chi? Hùng Dũng vừa nói vừa há cái miệng hơi meo méo.
- Thế thì Dũng không có vợ, đang độc thân chắc. Vất vả sơn cho xong cái Nhà Thờ Thủ Đức hầu kịp Lễ đã bở hơi tai, không chịu nghỉ ở nhà, còn vác cái thân ra đây làm chi? -Long không chịu thua bèn vặn lại.- Dũng vừa gải cái đầu bù xù dính đầy sơn vừa ậm ọe:
- À, bạn bè với nhau cả, phải cố chịu khó, cố thức để chờ đón thằng Minh chứ. Vả lại còng lưng sơn, cả đời tau, đời con tau, cháu tau, chắc gì được triệu đô la. (Hùng Dũng vốn được anh em khen tặng là thẳng như ruột ngựa). Còn chú mày đã có nhà lầu, có xế hộp xịn mà cũng lặn lội vất vả như tớ hả?
- Thức một chút, chầu chực một chút nhằm nhò gì so với một triệu đô trên trời rơi xuống. Thằng Minh đã có lòng thì mình phải có công chứ, hề hề. Long phân bua trong tiếng cười khoái trá.
- Không biết khi mô thằng Minh đến heng. Phải thức thôi, phải sẵn sàng thôi!
- Làm sao mà ngủ được, có mệt, có buồn mấy đi nữa thì cũng cố thức để chờ chứ.
- Thế thì ta làm vài xị lai rai vừa thức vừa chờ.
Đúng là đâu có Long, có Dũng hẳn thời có xị thôi với bất cứ lý do gì dù buồn hay vui, dù trúng mánh hay là công toi. Đang nhậu nhưng mắt của hai bạn không rời cái cổng ra vào của sân bay. Thỉnh thoảng mới đảo qua đảo lại nhìn trời, nhìn người chung quanh để cặp mắt đỡ mỏi. Phải tỉnh thức, phải sẵn sàng vì không biết giờ nào, phút nào lão Trương đến phi trường. Không được phép để mình đứng hàng thứ sáu. Công dã tràng! Ánh đèn điện rực sáng của nhà chờ phi trường cũng không đủ soi tỏ mặt từng người khi mà số người đi đón thân nhân khu vực ‘ga quốc tế” thường đông gấp năm gấp mười số người xuống máy bay, thế mà hình như không một ai ở ngoài vùng phủ sóng của bốn con mắt của hai anh bạn đang nhâm nhi. Bỗng Hùng Dũng la lên :
- Kìa kìa, xem ai có tấm lòng với người thân quá đỗi kìa, ra tận phi trường bằng chiếc xe lăn quả là hết tình hết ý.
- Đâu? đâu? Hình như trông quen quen. Đúng là Hoàng Phúc rồi, một anh bạn bị bệnh teo cơ từ thuở nhỏ. Cả hai vụt chạy đến với “vị” ngồi xe lăn đi đón người thân.
- Phúc hả? Lăn xe từ Hàm Tân-Phan Thiết vào đây hả? Đón ai thế?
- Không lẽ chỉ mình hai ông bạn mới biết tin Trương Văn Minh thôi ư?
- Nè, nói thật đừng trách nghen - cũng là cái ông ruột ngựa Hùng Dũng lên tiếng - Đằng ấy còn mong một triệu đô để làm gì? Vợ con không có, à chưa có, lấy tiền để làm gì?
- Thú thật với hai bạn, trong niềm tin thì Chúa chính là gia nghiệp của mình, nhưng đời sống thực tiển lại cám dỗ mình: tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là là…
- Thôi, thôi, stop. Tụi mình thuộc lòng cái điệp khúc mà các ông cha, vốn không biết chi sự đời như tụi mình mà lại thường thao thao trên bục giảng về chuyện cơm áo gạo tiền. Hùng Dũng ngắt lời chưa xong thì Xuân Long vội tiếp ngay:
- Xì, nói gì đến mấy ông cha. Cơm nước hằng ngày có người bưng bê, có hề lao tâm khổ trí vì miếng cơm manh áo như tụi mình đâu. Hằng ngày giang tay chưa đến một tiếng đồng hồ là có đủ số tiền bằng hoặc hơn tụi mình suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời rồi. Giáo Hội mà cho các ông có rờ mọc ngoằn ngoèo lê thê như tụi mình chắc là ngọng miệng khi giảng về sự khó nghèo, sự từ bỏ. Dũng ta được dịp đế thêm:
- Mình mà như mấy ổng, thì chẳng cần biết tiền bạc làm gì. Hết giang tay rồi tay lại cầm ly nhâm nhi như mấy tiên ông thoát tục. Hoàng Phúc ngắt lời:
- Đừng xỏ xiên các ngài nữa, để sức mà thức canh chừng lão Trương xuống phi trường kẻo hỏng phần thì công toi. Cả ba trở về với nhiệm vụ. Dù trời đã dần về khuya mà chẳng con mắt nào dám chợp. Chợt tiếng Hùng Dũng la lên:
- Mắt mình sao choi chói. Đúng rồi, cái trán ông nào quá láng đây. Một cái trán hói, đầu hơi to to trên vóc người nho nhỏ, ai như…như ông già cao nguyên. Ủa cái lão hói Ban Mê giờ này không lo giải tội, không lo chuẩn bị lễ Giáng Sinh cho bà con, còn mò về đây làm gì cà? Cả nhà chết gần hết rồi còn ai chết nữa đâu mà bỏ cả hai chục ngàn giáo dân trong những ngày đại Lễ này. Xin chào, cha Ban Mê phải không? Có người thân hấp hối dưới này hả? Sao lang thang ở đây giờ này? Mai là Noel rồi, không ở nhà lo cho giáo dân xuống đây làm gì? Thành thật khai báo đi! - Đúng cung giọng của ông ruột ngựa Mai cô Hùng Dũng-
- Chào anh em! Hùng Dũng, Xuân Long, à à cả Hoàng Phúc đây nữa hả. Biết là mai Noel rôi nhưng tớ đã năn nỉ cha phó chạy sô giúp. Sáng mai chạy nước rút về Ban Mê vẫn còn kịp chán. Nếu xe cộ trục trặc hay đường sá sụt lở vì mưa gió mà bà con ở ba bốn điểm còn lại không có Lễ thì sang năm ta bù, năm nào mà không có lễ Noel. Thú thật với các bạn là có đọc tin của Trương Văn Minh. Dù thế nào đi nữa, cũng phải sẵn sàng, phải sẵn sàng tỉnh thức luôn. Dịp may ngàn năm có một, không thể bỏ được. Có thực mới vực được đạo chứ.- Dĩ nhiên, cái ông cha vùng cao nguyên này có đủ lý lẽ về thánh kinh, thần học, luân lý…lẫn mục vụ, để biện minh cho sự hiện diện của mình ở sân bay TSN giờ này.
Câu chuyện bịa như thật hay là thật như bịa vẫn tiếp tục với sự xuất hiện của từng thành viên một lớp tu ngày nào của Tiểu Chúng Viện Hoan Thiện. Ngoại trừ chỉ một thành viên nước ngoài với lý do mua vé máy bay không kịp là cha Trần Thu, biệt hiệu Thu Ca, làm quản xứ một giáo xứ ở Canada (chắc ông cha này chịu chức gần kỷ niệm ngân khánh nên vướng bận nhiều dây mơ rể má!), thì hình như không thiếu một ai, kể cả lão Trần Diễn tận Canada hay chú út Cường tựa là Heo Con xứ Na Uy… Điểm mặt, điểm danh mới biết thiếu các anh Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Go, Nguyễn Công Xuân…những người không thể có mặt cách cụ thể thấy được vì đã khuất núi. Có lẽ mấy bạn này chỉ xài đô la của “ngân hàng âm phủ” mà người ta thường rải cách hào phóng, không chút sợ làm ô nhiễm môi trường trong nhiều đám tang ở đất nước Việt Nam hiện nay.
Trong khi chờ sự xuất hiện của Trương lão gia thì chuyện như thường tình xảy đến là chai, ly, dĩa. Không khí thật phấn khởi hân hoan. Bỗng già làng Nguyễn Phùng tuyên bố một câu như chân lý thực tiển: “Có ngu, có điên mới không tỉnh thức sẵn sàng trước một mối lợi quá lớn như thế này. Phải thức thôi! Năm thằng nào nhận được năm triêụ đô thì phải đem chia đều cho tất cả, dĩ nhiên là không để lão Trương biết. Tất cả phấn khởi hoan hô và cùng dzô 100%. Ông cha Nghĩa ngứa nghề bèn thêm: “Giờ mình mới cảm nghiệm lời Thánh Phaolô: tôi chấp nhận mọi thua thiệt trước một mối lợi lớn là được biết Đức Kitô”. Và ngài thú nhận: “mình chưa thực sự gặp gỡ Chúa Kitô cách nào đó như thánh tông đồ”.
Sẵn sàng, tỉnh thức không phải là điều kiện mà chính là hệ quả kéo theo trước niềm vui đang đón chờ một hạnh phúc bất tận.
Bạn, tôi, chúng ta có thật xác tín rằng Chúa đến để đem hạnh phúc cho nhân loại không? Chúng ta có xác tín Chúa là gia nghiệp của mình không? Như thánh Philipphê, ta có mong được thấy Chúa, được gặp Chúa là đủ cho ta không? (x.Ga 14,8)
Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa lại đến trong vinh quang với ngày tận cùng của vũ trụ vạn vật. Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta chờ mong Chúa đến với mỗi người trong ngay kết thúc cuộc đời này. Nói đến ngày tận thế, thú thực ông cha này không mấy thấy lo cho bằng lũ trẻ choai choai, vì theo lời chúng khai thật thà là vì chưa được sống như người lớn, dĩ nhiên là hàm ý được hưởng cái sự đời này. Còn nói đến ngày chết, quả tôi rất nhiều khi thấy lo lo, sợ sợ, nhất là trong những lần ngã bệnh. Đúng là chỉ có thánh mới phấn khởi hân hoan khi đối diện với cái chết tức là cận kề dịp gặp Chúa, nguồn của mọi phúc lành.
Vấn đề đặt ra là làm sao có được sự xác tín rằng Chúa đến để đem hạnh phúc cho ta. Chúa đến không phải để lên án thế gian nhưng để bất cứ ai tin vào Ngài thì được cứu độ (x.Ga 3,16-17). Và Mùa Vọng phải là mùa của niềm vui, của sự phấn khởi hân hoan. Ước gì một ngày nào đó các phẩm phục mùa Vọng sẽ có sắc màu hồng tươi thay cho cái màu tím có vẻ ảm đạm như hôm nay.
Để mời gọi tín hữu tỉnh thức sẵn sàng, Mẹ Hội thánh giới thiệu cho chúng ta những bài đọc Thánh Kinh trong các thánh Lễ của mùa Vọng luôn ẩn tàng niềm vui. Vui vì dân Chúa sắp được giải phóng khỏi ách nô lệ, lưu đày. Vui vì viễn cảnh hoà bỉnh, công lý, tình thương đang đến gần. Người ta sẽ lấy giáo mác rèn nên lưỡi hái lưỡi liềm. Hoà bình và công lý sẽ giao duyên. Trẻ thơ sẽ vui đùa giũa các dã thú…Nhất là vui vì Chúa sắp đến cứu độ chúng ta.
Quả thật, lấy niềm vui, hạnh phúc để khuyến dụ người ta tỉnh thức sẵn sàng vừa đẹp vừa dễ hơn là lấy tai hoạ để doạ dẫm người ta. Ước gì niềm vui, niềm hạnh phúc ấy không ở đâu xa nhưng là ngay trong nghĩa tình huynh đệ của những người mang danh Kitô hữu, một nghĩa tình vốn đã từng khiến cho nhiều anh em lương dân hay người khác đạo thời giáo hội sơ khai mến thương, thán phục và xin gia nhập cộng đoàn (x.Cvtđ 2,42-47,4,32-35).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A : SỐNG TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Một năm Phụng Vụ lại đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên vẫn có đó cái gì mới lạ khi ta bước vào một điểm mốc của thời gian, cho dù đó chỉ là sản phẩm có tính quy ước của con người. Bắt đầu một chu kỳ mới, được gọi là năm dựa trên vòng xoay của vũ trụ nói chung, của thái dương hệ mặt trời và trái đất chúng ta nói riêng hay khởi đầu một chu kỳ lịch sử ơn cứu độ theo niên lịch Phụng vụ Kitô giáo, hẳn nhiên vẫn tiềm tàng một khao khát, ước mơ, hy vọng nào đó. Chắc chắn đó là những hy vọng, mơ ước về nhiều điều tốt đẹp, có thể là hợp lý, phải đạo, cũng có thể là không và không thể loại trừ những ước vọng cao cả.
Bước vào một chu kỳ mới của niên lịch Phụng vụ, Hội Thánh mẹ, trong năm Phụng vụ năm A này có vẻ hơi lạ thường khi mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến ngày chung cục của thế giới, của đời người chúng ta. Bài tin mừng theo thánh Matthêu tường thuật những lời cảnh báo của Chúa Giêsu về tính bất ngờ, đột ngột của cái ngày chung cục ấy. Đồng thời Người kêu gọi các khán thính giả lúc bấy giờ cũng như chúng ta hôm nay rằng hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Quy luật tự nhiên giúp ta thêm xác tín rằng sự gì khi đã có khởi đầu thì hẳn có lúc kết thúc.
Vòng đời “thành, trụ, hoại, không” của nhiều vật, nhiều loài hữu hình trước mắt chúng ta là một dấu chứng cho sự kết thúc của vạn vật nói chung và của đời người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là tính bất ngờ. Hình ảnh cơn lụt đại hồng thủy thời Noe hay hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, thì một người bị đem đi, một người bị để lại, tất thảy đều muốn mô tả sự bất ngờ. Khi nói đến sự bất ngờ người ta thường nói đến hệ quả của nó là sự mất mát, sự thiệt hại hơn là sự may mắn hay là được lợi, cho dù thỉnh thoảng nhiều sự may mắn có xảy đến cách bất ngờ như chuyện trúng số độc đắc. Để tránh những hệ quả xấu, di hại cho hạnh phúc chúng ta đời này, nhất là cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại là hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Vậy thế nào là thái độ biết sẵn sàng và tỉnh thức? Hội Thánh, qua bài đọc thứ nhất trích Sách Tiên tri Isaia và bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Roma, muốn trình bày hai phương thế sống tỉnh thức sẵn sàng, xét theo phương diện tiêu cực và tích cực.
1. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tiêu cực : Hãy loại bỏ những việc làm đen tối. Hãy dứt khoát với việc chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương. Không chiều theo tính tự nhiên mà thỏa mãn các dục vọng bất chính, đê hèn. Những hành vi bất chính, những thái độ bất xứng, những việc làm ám muội thường là những thái độ, hành vi, việc làm mà ta ít dám thể hiện công khai và thường không muốn cho ai hay, ai biết, ngoại trừ người đồng lõa, người tòng phạm.
Để sống tỉnh thức sẵn sàng theo nghĩa này thì xin hãy nhớ rằng không có sự gì mà sẽ không bị tỏ lộ. Chúng ta có thể che giấu một người nhiều lần. Chúng ta cũng có thể che giấu nhiều người một vài lần. Nhưng chúng ta khó mà che giấu mọi người nhiều lần. Nhất là chúng ta không thể nào che giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can con người, từn người và mọi người (x.Tv 139)
Để sống sẵn sàng tỉnh thức theo ý hướng này không gì hơn hãy minh bạch hóa các việc làm của ta. Một người không ngần ngại công khai hóa các lời nói, tâm tư và hành động của mình thì sẽ tránh được nhiều sai sót, lỗi lầm. Và nếu có lỡ lầm hay sai sót thì cũng sẽ dễ có cơ hội khắc phục, sữa sai nhờ tha nhân góp ý, nhận định, phê bình.
2. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tích cực: Lấy gươm đao rèn thành cuốc thành cày; lấy giáo mác đúc thành liềm, lưỡi hái. Một động thái tích cực thật tuyệt vời. Đó là quay ngược 180 độ các xu hướng xấu xa, các việc làm ám muội, các hành vi gian ác. Một ngày kia, người ta hỏi văn hào Bernard Shaw, một văn hào rất thông minh và dí dỏm trong lối ứng xử: Nhờ đâu, và bằng cách nào ngài có được những câu ứng xử vừa thông minh vừa dí dỏm như thế? Có gì đâu. Tôi cứ tưởng tượng ra một câu nói thật ngu ngốc và nhạt nhẽo, rồi tôi tìm cách nói ngược lại.
Ai trong chúng ta lại không có những điểm yếu, những nghiêng chiều bất chính, những thói quen không tốt, chẳng hay, nếu chưa muốn nói là xấu xa? Ai trong chúng ta lại không có những tội lỗi mà nếu công khai ra thì thật ngượng ngùng? Ai trong chúng ta lại không có những lầm lỗi hay tái phạm nhiều lần, khó chữa, khó chừa? Cứ vạch rõ chúng ra rồi hãy làm điều ngược lại. Giả như tôi có tật xấu hay bủn xỉn, keo kiệt về tiền bạc thì ước gì tôi tích cực tập chia sẻ cho tha nhân cách cụ thể bằng những đồng tiền rút từ hầu bao của tôi.
Kinh “Cải tội bảy mối, có bảy đức” chúng ta dường như thuộc nằm lòng. Kinh ấy có ra không phải là để chỉ đọc trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng mà là để chúng ta sống. Có thể nói một cách chắc chắn rằng những ai sống nội dung kinh “Cải tội bảy mối…” là đang thật sự tỉnh thức và sẵn sàng.
Người đang sẵn sàng và tỉnh thức thì không có gì là đột ngột hay bất ngờ mà là luôn trong tư thế chuẩn bị và đón chờ. Người biết đón chờ trong tư thế chuẩn bị thì hẳn sẽ gặp nhiều may lành khi giờ Chúa đến. Nói đến giờ Chúa gọi thì có thể có người cho là còn xa. Nhưng chắc chắn người biết chuẩn bị và đón chờ thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong dịp kỷ niệm Chúa Kitô đến thế gian lần thứ nhất là Đại Lễ mừng Chúa Giáng Sinh.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột

Chúa Nhật XXXIV TN C - Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ : DÂN VI QUÝ

Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Col 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, giáo hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.

Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền “xẩy ra như vậy”. Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi nó được dựng nên “giống hình ảnh” của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Col 1,15).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, giáo hội không chỉ khẳng định quyền tối thượng của Chúa Kitô trên mọi loài mà còn tuyên xưng Chúa Kitô chính là khuôn mẫu, là lẽ sống của mọi hiện hữu, nhất là của loài người. Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà giáo hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.

“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đinh dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.

Mối tương quan “cùng-với” này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó…, khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng “người rừng” đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại…là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.

Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quảng thời gian rao giảng Tin mừng và đích diểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).

Hình ảnh của một vị minh quân theo quan niệm người xưa đó là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.

Dỏng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: “Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Col 1,20).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy…( Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27).Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi “ngự trên ngai vinh hiển của Người” sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em “bé mọn” (x.Mt 25,31-46).

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột.

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

Ai là mục tử? Đàn chiên thuộc về ai?

Ga 10,11-18

Bản văn (Lê Minh Thông dịch sát bản văn Hy Lạp)

Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu:

11 Chính Tôi là mục tử tốt. Mục tử tốt hy sinh mạng sống của mình vì đàn chiên.

12 Người làm thuê không phải là mục tử, đàn chiên không thuộc về mình. Thấy sói đến, anh ta bỏ đàn chiên mà chạy - và sói vồ lấy chúng và làm tán loạn -.

13 Vì là kẻ làm thuê, anh ta không lo lắng cho đàn chiên.

14 Chính Tôi là mục tử tốt. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi,

15 như Cha biết Tôi, và Tôi biết Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.

16 Tôi còn có những chiên khác, chúng không thuộc ràn này. Tôi cũng phải dẫn dắt chúng và chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ làm thành một đàn chiên, một mục tử.

17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi: Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó.

18 Không ai lấy nó khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.”





Chia sẻ

Đức Giê-su là mục tử tốt, Người là mục tử duy nhất của đàn chiên. Khi tham gia nhiệm vụ chăn dắt trên nhiều cấp độ khác nhau trong Hội Thánh, chúng ta dễ quên là chỉ có một mục tử duy nhất là Đức Giê-su. Những người có nhiệm vụ chăn dắt trong cộng đoàn là những người được Đức Giê-su giao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người. Đàn chiên đó thuộc về Đức Giê-su. Sở hữu đàn chiên là Đức Giê-su, vì chỉ một mình Người là mục tử tốt, chỉ một mình Người có khả năng “hy sinh và lấy lại mạng sống mình” vì yêu mến đàn chiên.

Xin chia sẻ đôi nét về tư cách mục tử của Đức Giê-su và về vai trò người chăn dắt trong cộng đoàn Hội Thánh.

Trước hết, người ta thường gọi Đức Giê-su là “Mục tử nhân lành” cách nói này chưa diễn tả hết ý nghĩa, vì có thể chỉ dừng lại ở nghĩa “hiền lành”, “tốt lành”. Trong khi, bản văn Hy Lạp dùng tính từ “tốt” (kalos). “Mục tử tốt” không chỉ là “tốt lành”, “hiền lành”, mà điều quan trọng hơn là “tốt” về phẩm chất. Người mục tử tốt là người có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của nhiệm vụ chăn dắt và chu toàn tốt đẹp vai trò mục tử.

Khẳng định của Đức Giê-su: “Chính Tôi là mục tử tốt” là kiểu nói đặc trưng của thần học Gio-an. Đức Giê-su là ánh sáng, là bánh, là cây nho đích thực, là cửa ràn chiên, là mục tử tốt. Tính từ “tốt” cho phép phân biệt với tất cả các mục tử khác trong Cựu Ước. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su không so sánh mình với các mục tử khác, bởi vì Người là mục tử duy nhất của đàn chiên.

Đức Giê-su là mục tử tốt, vì Người hy sinh mạng sống của mình vì đàn chiên (10,11). Lời này lạ lùng và nghịch lý. Nếu mục tử chết, đàn chiên cũng chết. Vì không có ai bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói dữ. Trên thực tế, người mục tử phải tìm mọi cách để sống còn. Dù phải đối diện với nguy hiểm, người mục tử khôn ngoan là người bảo toàn được mạng sống của mình, như thế mới có thể bảo vệ đàn chiên. Bởi vì, sự sống còn của đàn chiên lệ thuộc vào sự sống còn của mục tử. Người mục tử tốt là người “sống vì đàn chiên”, chứ không phải là người “hy sinh mạng sống mình”, theo nghĩa “chết vì đàn chiên” như Đức Giê-su nói.

Thực ra, cuối đoạn Tin Mừng, sự sống của Đức Giê-su được đề cao. Người khẳng định: “Tôi có quyền hy sinh mạng sống mình và có quyền lấy lại nó”. Lời này ám chỉ Đức Giê-su sẽ chiến thắng sự chết. Biến cố Phục Sinh làm cho Người trở thành mục tử duy nhất. Người đang sống. Chính Người bảo vệ đàn chiên, ban sự sống đích thực cho đàn chiên và làm cho đàn chiên được sống dồi dào (10,10).

Nhưng tại sao Đức Giê-su lại hướng về sự chết khi khẳng định ngay từ đầu đoạn Tin Mừng: “Mục tử tốt hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (10,11)?

Trong bối cảnh văn chương của Tin Mừng thứ tư, đoạn văn 10,11-18 ở vào cuối sứ vụ công khai, những kẻ chống đối Đức Giê-su đã và đang tìm cách giết Người; sứ vụ công khai của Đức Giê-su đang dần dần khép lại. Vì thế, đoạn văn 10,11-18 nhằm xác định vai trò của Đức Giê-su đối với những ai tin vào Người. Người là mục tử tốt, Người tự ý hy sinh mạng sống mình và Người có quyền lấy lại nó. Nhờ đó, Người có khả năng ban sự sống cho đàn chiên.

Bầu khí xung đột bộc lộ trong cách Đức Giê-su dùng hình ảnh “người làm thuê”. Ai là những kẻ làm thuê? Tin Mừng cho phép hiểu Đức Giê-su ám chỉ giới lãnh đạo Do-thái đang tìm cách giết Người, đó là những người Do-thái, những người Pha-ri-sêu, các thượng tế, họ là những người được giao nhiệm vụ chăn dắt dân. Các sách Cựu Ước gọi họ là mục tử, nhưng Đức Giê-su tước mất quyền đó khi nói: “Người làm thuê không phải là mục tử, đàn chiên không thuộc về mình… Vì là kẻ làm thuê, anh ta không lo lắng cho đàn chiên” (10,12-13).

Chính trong bối cảnh những kẻ chống đối đang tìm cách giết Đức Giê-su mà Người nói đến việc “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên”. Hoa trái của sự “hy sinh và lấy lại mạng sống” này là phổ quát. Vì qua đó, Đức Giê-su quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về thành một đàn chiên, một mục tử (10,16; 11,52).

“Một đàn chiên, một mục tử” (10,16) là khẳng định thần học quan trọng, mà nhiều lúc những người có nhiệm vụ chăn đắt xem nhẹ. Cuối Tin Mừng Gio-an (21,15-17), ba lần Đức Giê-su hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?”, chỉ sau khi Phê-rô trả lời “Thầy biết con yêu mến Thầy”, Đức Giê-su mới trao sứ vụ chăn dắt: “Anh hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”.

Kiểu hành văn này cho thấy: Đàn chiên, bao gồm mọi người tin, là của Đức Giê-su. Các chủ chăn trong Hội Thánh là những người được Đức Giê-su giao phó nhiệm vụ chăn dắt và chăm sóc đàn chiên của Người. Đàn chiên là của Đức Giê-su chứ không phải của bất kỳ ai khác.

Câu hỏi đặt ra: Để có thể chăn dắt đàn chiên của Đức Giê-su phải có điều kiện nào? Ngoài những đòi hỏi mang tính pháp lý như được huấn luyện, lãnh tác vụ, điều cốt lõi là “tình yêu dành cho Đức Giê-su”. Ba lần, Phê-rô tuyên xưng tình yêu dành cho Đức Giê-su trước, sau đó mới được Người giao sứ vụ chăn dắt. Như thế, tình yêu dành cho Đức Giê-su là nền tảng làm nên bản chất của người chăn dắt. Có thể nói, khi người chăn dắt không thực sự yêu mến Đức Giê-su nữa, thì ngay lúc đó, người ấy không còn tư cách để chăn dắt đàn chiên của Đức Giê-su nữa. Bởi vì, chính tình yêu dành cho Đức Giê-su là bản chất và là căn tính của sứ vụ chăn dắt.

Thánh Augustinô diễn giải lời Đức Giê-su nói với Phê-rô ở Ga 21,15-17 như sau:

“Nếu anh yêu mến Thầy, anh đừng nghĩ anh là mục tử; nhưng anh hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy, như chúng là của Thầy chứ không phải như chúng là của anh; anh hãy tìm kiếm nơi đàn chiên vinh quang của Thầy chứ không phải vinh quang của anh; sở hữu của Thầy, chứ không phải sở hữu của anh, lợi ích của Thầy, chứ không phải lợi ích của anh.”

Xin cho sứ điệp của bài Tin Mừng giúp chúng ta sống đúng vị trí và vai trò của mình khi tham gia vào nhiệm vụ chăn đắt ở nhiều cấp độ khác nhau trong cộng đoàn Hội Thánh. Điều quan trọng hơn cả là “yêu mến Đức Giê-su” và từ đó chăn đắt đàn chiên được giao phó bằng chính tình yêu mà Đức Giê-su là vị mục tử quy nhất đã dành cho mình và dành cho đàn chiên của Người./.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

Triết học Phật giáo Ấn Độ


1. Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa xã hội Việt Nam


Từ xưa tới nay có rất nhiều trường phái triết học du nhập vào Việt Nam nước Ta nó đã có ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống nhân dân cũng như sự phát triển của đất nước, sau đây em xin trình bày về những ảnh hưởng của triết học Ấn Độ mà chủ yếu là trường phái triết học Phật Giáo nó đã được du nhập vào việt nam như thế nào và những ảnh hưởng của nó ra sao.

Trước tiên ta nói một đôi dòng về triết học phật giáo của Ấn Độ.
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy – Mã - Lạp – Sơn kéo dài trên hai ngàn km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là nhân tố kinh tế – xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là “Công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh tế điển hình là chủ nghĩa Mác coi là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô (nô lệ). Thêm vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú về các lĩnh vực toán họ
c thiên văn, lịch pháp nông nghiệp v.v…
Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức nói trên đã hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.

Triết học Ấn Độ cổ đại chia làm hai giai đoạn
Giai đoạn thứ nhất: (Từ giữa thiên niên kỷ III tr.CN đến khoảng giữa thiên niên kỷ II tr. CN). Đây là giai đoạn thường được gọi là “Nền văn hoá Harappa” (hay nền văn minh sống Ấn) – Khởi đầu của nền văn hoá Ấn Độ, mà cho tới nay người ta còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu khảo cổ học vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Giai đoạn thứ hai: (Tiếp nối giai đoạn thứ nhất tới thế kỷ thứ VII tr. CN). Đây là thời kỳ có sự thâm nhập của người Arya (gốc Ấn - Âu) vào khu vực của người Dravida (người bản địa). Đây là sự kiện quan trọng về lịch sử, đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn hoá - tín ngưỡng của hai chủng tộc khác nhau. Chính qúa trình này đã làm xuất hiện một nền văn hoá mới của người Ấn Độ: nền văn hoá Véda.
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5 –6 thế kỷ (Từ thế kỷ thứ VI tr.CN tới thế kỷ I tr.CN) đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến động lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, cũng là thời kỳ hình thành các trường phái triết học – tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư tưởng lớn, được chia làm hai phái: chính thống và không chính thống.
Thuộc phái chính thống có Sàmkhuy, Mimasa, Védanta. Yoga, Nỳaya và Vasêsika.
Thuộc phái không chính thống có Jaina, Lokayata và Phật giáo (Buddha).
Triết học Ấn Độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng.
So với các nền triết học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Trừ trường phái Lokayata, các trường phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và những tư tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật giáo, tuy tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Véda (truyền thống tôn giáo) nhưng trong thực tế nó vẫn không thể vượt qua truyền thống ấy. Tuy nhiên tính tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” mà không phải “hướng ngoại” như nhiều tôn giáo phương Tây. Cũng bởi vậy, xu hướng chú giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Đó chỉ là những nét đặc thù của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại trong tương quan so sánh với các nền triết học cổ đại khác, cái làm nên thiên hướng riêng của nó. Còn về nội dung tư tưởng, nền triết học Ấn Độ cũng giống như nhiều nền triết học cổ đại khác, nó đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề về triết học: Bản thể luận, nhận thức luận v.v…
Chúng ta đi xét những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Phật giáo.Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình của nền tư tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới.
Người sáng lập Phật giáo là Thích – Đạt - Đa, vào khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN. Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau: Như Lai, Phật Tổ, Đức THế Tôn… nhưng khá phổ biến là “Thích Ca Muni” (Sakyamuni – nghĩa là “bộc hiền giả dòng Sakya”).
Sau Sakyamuni một vài thế kỷ, Phật giáo được phân chia thành tông phái lớn là tiểu thừa giáo và đại thừa giáo (nghĩa là “cỗ xe nhỏ” và “cỗ xe lớn”). Tiểu thừa giáo phát triển về phía Nam ấn Độ rồi truyền bá sang Xêrilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam…Đại thừa giáo phát triển mạnh ở Bắc ấn Độ, truyền bá vào Tây tạng, Trung hoa, Nhật bản, Bắc Việt nam…
Kinh điển của Phật giáo gồm: Kinh – Luật – Luận (gọi là “Tam tạng” – tức “ba kho kinh điển”). Mà về mặt triết học thì quan trọng nhất là “kinh” và “luận”. “Tam tạng” kinh điển của Phật giáo được ghi bằng hai hệ Pali và Sankrit (Ngữ bộ Nam và Bắc ấn) có tới trên 5000 quyển.
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) gồm mấy vấn đề lớn sau:
Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu…
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Thứ hai: Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều trường phái khác của triết học ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng nữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu cứu cánh giác ngộ. Có thể, đây là lời kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng xã hội của Phật giáo, và như vậy Phật giáo thật sự là một trường phái thuộc phái “không chính thống” (tức phái cải cách) của nền tư tưởng Â’n Độ cổ đại.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
Luận điểm thứ nhất (khổ đế): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
Luận điểm thứ hai (Nhân đế): là luận điểm giải thích những nguyên nhân sự thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão Tử.
Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bở vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.
Luận điểm thứ ba (Diệt đế): Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân – Thiện – Mỹ.
Luận điểm thứ tư (Đao đế): là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.

Con đường “giải phóng cá nhân” này gồm 8 nguyên tắc:
* Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh)
* Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn).
* Chính ngữ (giữ lời nói phải).
* Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp).
* Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng).
* Chính tinh tiến (rèn luyện không mỏi mệt).
* Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát).
* Chính định (an định, tự tác).

Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm vào ba đIều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã).
Trên đây là hai vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ). Sự phát triển về sau của Phật giáo đã chia thành các tông phái khác nhau và đã có những phát trên rất khác nhau về các quan điểm triết học.

Qua những đặc điểm trên ta thấy:
Triết học ấn Độ cổ đại đã dặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy triết học. Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan triết học.Giải quyết vấn đề bản thể luận, triết học ấn Độ đã hướng tư duy (suy tư) váo nguồn gốc sinh thành của vạn vật, truy cứu nguồn gốc khởi đầu của chúng. Trong quá trình suy tư triết lý ấy, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu thực; vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu hình (Motaphidica) về cội nguồn của tồn tại. Chính tại điểm này làm xuất hiện những cảm nhận về tính biện chứng của tồn tại: Sự thăng bằng của các yếu tố, sự mất thăng bằng của những xung lực nội tại – sự biến hoá sinh thành của vạn vật từ cái vô hình – siêu vật lý - đến cái hữu hình, đa dạng.
Một xu hướng khá đậm nét mà các nền triết học khác của thế giơí ít quan tâm đó là sự giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn giáo, đi tìm cái Đại nghã trong cái Tiểu nghã của mỗi thực thể cá nhân. ở đây xu hướng “hướng nội” (khác với xu hướng “hướng ngoại” của tôn giáo phương Tây) trở thành một su hướng trội và cũng thế mạnh của tư duy ấn Độ, nhờ đó mà đã đi sâu vào những “bí ẩn” của đời sống nhân sinh. Những sự thật cuộc đời mà Phật giáo đề cập đến là những hiển nhiên với bất cứ ai, dù người đó thuộc về đẳng cấp, giai cấp hay dân tộc nào, vậy là suy tư triết học nhân sinh ấy đã đạt tới nhân sinh nhân loại. Đó cũng là một nguyên nhân nội tại khiến cho nó có sức sống toả rộng ra nhiều dân tộc, ở nhiều thời đại. Có thể nói: Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ đại, rất hiếm thấy ở các nền triết học khác. Đó cũng là một giá trị triết học mà con người hiện đại không thể bỏ qua.

NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NẾN VĂN HOÁ NƯỚC TA.

Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II sau Công Nguyên. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Trong quá trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều đóng góp cho văn hoá Việt Nam.
Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như nho giáo, Đạo giáo, islam giáo, Công giáo hay tin Đạo lành, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những va chạm nhất định với văn hoá bản địa, hình thành cục diện hội nhập khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng bản địa. Quá trình hội nhập đó dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới.
Mỗi tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những đóng góp nhất định về văn hoá. Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật này. Trong khuân khổ của chuyên đề này em xin đề cập tới một số ảnh hưởng cơ bản của một vài lĩnh vưc mà thôi.

1. Phật giáo đã góp phần đào tạo một tầng lớp trí thức.
Tầng lớp trí thức đầu tiên mà Phật đã đào tạo mang tính chất nhà sư am hiểu nho giáo. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông Việt đại sư là một nhân vật tiêu biểu.
Khi người Hán đến cai trị nướca ta thì họ mang chư Hán đến. Nhưng khi đến vùng đất này, người Hán chủ trương không mở trường đào tạo trí thức người Việt mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai trị. Do vậy, Suốt từ năm …..trước Công Nguyên cho đến thời kỳ đầu Công Nguyên chỉ có một Trương Trọng và mãi mới có vài ngươì như Lý Cầm, Lý Tiến để học hành để đấu tranh làm quan. Một số khác như Tích Quan Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp tuy có dạy hoc nhưng đều không có dấu hiệu phổ cập chữ Hán, biểu thị cụ thể nhất là không thấy xuất hiện một giai tầng lớp trí thức Việt trước thế kỷ thứ VII.
Tầng lớp trí thức Việt dầu tiên là trí thức Phật giáo. Người đầu tiên để lại tên tuổi là Pháp Hiền (? – 626). Phật giáo truyền vào Dầu cuối thế kỷ thứ II, hình thành trung tâm Dâu mà Pháp Hiền là nhà sư Việt đầu tien lưu tên trong sơn môn. Vấn đề đặt ra là, người ta truyền bá và phát triển đạo Phật bằng ngôn ngữ và văn tự gì trong thời kỳ đầu? Nhà sư ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi từ Trung Quốc đến Dâu năm 580 trụ trì ở đó, dịch một quyển kinh Tổng Trì. Ông ta đến Trung Quốc năm 562 (hay 574), gặp lúc các Phật giáo đang bị đàn áp, Tăng Xán đang trốn tránh nên khuyên ông xuống phương Nam. Ông đến chùa Chế Chí ở lại 6 năm dịch hai bộ kinh. Như vậy ông dã học đươc văn tự Hán. Cho nên khi đến Dâu, ông đã dùng ngôn ngữ và văn tự đó đẻ truyền bá Phật giáo.
Thế kỷ VII – VIII, tăng sĩ Việt Nam có nhiều người có trí thức uyên thâm về Phật giáo. Nhiều người giỏi cả Phạn ngữ, đã tham gia giải kinh Phật. Như trước đó, thế kỷ thứ III, tư liệu để lại cho biết về Đạo Thanh, một người Việt giúp nhà sư ấn Độ dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh ở nước ta khoảng năm 255 – 256.
Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người Việt trở thành trí thức, chính quyền đô hộ Hán - Đường đã gián tiếp hun đúc các thiền sư Việt Nam ý thức về một nền độc lập dân tộc. Những nhà sư Phật giáo dã là tầng lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập đầu tiên như các nhà tiền Lê - Lý – Trần.
Lê Đại Hành khi lên ngôi Vua đã mời Thiền sư Pháp Thuận và Thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi vào triều đình làm cố vấn chính trị. Thiền sư Vạn Hạnh là người huyền thoại hoá Lý Công Uốn và đưa ông lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của thời Lý. Lý công Uốn là con nhà sư Lý khánh Vân, ra dời trong một chuyến lên chùa của mẹ ông. Lý Công Uẩn học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh đã tuyên truyền cho ông, đã khen ông sẽ làm bậc minh chủ. Các tư liệu dù đã thuyền hoại hoá nhung vẫn thấy Lý Công Uốn xuất thân đào tạo trong Phật giáo đưa lên ngôi báu.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốc giáo. Thời Ly Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.
Nhà nước Ly ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng nho giáo thời Ly Trần có xu hướng phát triển ngược lại với Phật giáo, Nho giáo đã đào tạo một tầng lớp trí thức để làm quan. Nho giáo từ chỗ lúc đầu mới chỉ được nhà nước phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc như một học thuyết để trị nước tới chỗ sau đó (cuối thời Trần) đã trở thành một ý thức hệ trên đà thống trị xã hội.
Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương thức giao lưu văn hoá cưỡng chế. Vì vậy, sau hơn 1.000 năm đô hộ của chính quyền phương Bắc, Nho giáo cũng chỉ là một lớp váng mỏng đọng lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng rất nhỏ bé. Đến thời Ly Trần, nho giáo trở thành một nhu cầu tư tưởng thiêt yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền, cũnh như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lươc là chế độ khoa cử. Do vậy các nhà vua sùng Phật vẫn cần đến một sự bộ trợ của Nho giáo. Thời Ly-Trần Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái Tử học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, năm 1076 mở trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1086 triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hải, Nguyễn Trung Ngạn… Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ dùng cho tầng lớp quý tộc tông thất. Đoàn Nhữ Hải từ một nho sinh được thăng đến chức Hành khiển là một ví dụ tiêu biểu.
Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.

2.Đóng góp của Phât giáo về mặt văn tự.

Như trên đã đề cập các nhà sư Â’n Độ và Trung Quốc đến Việt Nam và dịch kinh sách bằng văn tự Hán và ngôn ngữ, văn tự đó được dùng để truyền bá Phật giáo.
Một vấn đè được đặt ra là trước thế kỷ thứ VI Phật giáo hoạt động ở trung tâm Dâu bằng ngôn ngữ và văn tự nào?
Chúng ta biết rằng miền trung và miền Nam nước Việt, vào thời diểm đó nơi này là các vương quốc Chămpa và Phù Nam. Các thương nhân và nhà truyền giáo Â’n Độ đều đã đến đây có thể cùng một lúc hay sơm hơn thời gian họ đến Dâu. Nhứng nhà truyền giáo đó đã dùng ngôn ngữ và văn tự nào để truyền giáo? Câu trả lời rõ ràng và cụ thể là: văn tự sanscrit. Bi kí và minh văn thuộc niên đại khoảng đầu Công Nguyên đã được phát hiện trước năm 1945 và hiện nay vẫn còn đang được phát hiện chứng minh diều đó một cách hùng hồn. Như vậy là do người truyền giáo Â’n Độ không gặp ở nam Đại Việt lúc bấy giờ một văn tự nào sẵn có để họ sử dụng, vì vậy họ sử dụng văn tự sanscrit để truyền giáo. Còn ngôn ngữ thì đã có sẵn cho nên chẳng bao lâu sau thì xuất hiện chữ Chăm, chữ Khmer trên cơ sở chữ sanscrit.
Còn ở phía bắc thì cho đến nay không còn tìm thấy dấu vết chữ sanscrit thời đó. Để giải thích hiện tượng này chúng ta nhìn lại lên phía bắc. Khi những nhà truyền giáo Tây Vực hay Ấn Độ đến kinh đô Trung Quốc thời Hán thì họ đều dịch kinh bằng cách này hay cách khác. Hoặc họ đọc các kinh bản qua người Trung Quốc biết ngoại ngữ phiên dịch, hoặc tự tay họ dịch sau khi họ học chữ và tiếng Trung Quốc. Cho nên ở Trung Quốc không hình thành một dạng văn tự sanscrit mà trái lại hình thành một loại văn tự sanscrit chữ Hán, tức là chữ ngang thì chuyển thành chữ ô vuông nghĩa là bị cắt ra từng đoạn hình thành chữ Phạm – Hán mà ngay nay chúng ta vẫn thấy đề trên cổng chùa hay khắc trên chuông… và ghi trên kinh chữ Hán thường ở phần chú(thần chú).
Như vậy, nếu Phật giáo Ấn Độ truyền đến một khu vực chưa có văn tự Â’n Độ sẽ địa phương hoá sản sinh ra một văn tự địa phương thuộc hệ văn tự Â’n Độ. Nếu đến nơi đã có văn tự thì nó biến dạng thành một chủng loại mà tính trội thuộc về văn tự bản địa.

Nói một cách cụ thể hơn, Nam Đại Việt đã thừa hưởng của Bàlamôn giáo loại văn tự mà họ chưa có, nghĩa là bàlamôn giáo, phật giáo đem đến cho cư dân đó một loại văn tự. Đó là một cống hiến của Bàlamôn giáo và Phật giáo đối với miền nam nước ta. Còn bắc Đại Việt thì người truyền giáo Â’n Độ đã gặp ở đây một văn tự ngoại quốc nhưng quan phương, cho nên họ dùng loại văn tự đó – văn tự Hán. Nhưng cũng không phải họ không có cống hiến gì. Có hai cống hiến, sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ Hán đã đưa đến sự hình thành chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm đã hình thành trước thế kỷ V – VI. Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng nghĩa: Bụt – Chùa – Thầy và Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nôm, nhóm thứ hai là chữ Hán đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là âm Hán – Việt chứ không phải là âm Hán của chữ Việt. Chữ Nôm xuát hiện trong bộ thuạt ngữ Phật giáo này sẽ không bao giờ sản sinh và tồn tại được nếu như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được dùng từ đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật giáo. Nhưng bởi vì trước thế kỷ V – VI, Phật giáo Trung Quốc chưa hình thành. Công việc Phật giáo ở Trung Quốc chủ yếu vẫn do các nhà sư Tây Vực đảm nhiệm. Trong khi đó ở Dâu đã hình thành một trung tâm Phật giáo độc lập đối với Phật giáo Trung Quốc lúc bấy giờ con loanh quanh ở phương bắc xung quanh triều đình chưa lan xuống vùng Giang Đông, tức miền Nam. Sau này Phật giáo Trung Quốc vẫn hình thành Bắc tông và Nam tông là có lý do lịch sử của nó. Chỉ đến khoảng thế kỷ V – VI, một mặt Phật giáo Trung Quốc đã hình thành những Tông phái Trung Quốc như Thiên Thai, Pháp Tướng….Một mặt con đường thỉnh kinh cũng chuyển sang phương nam. Các nhà sư Trung Quốc xuống giao Châu đi đường thuỷ qua Â’n Độ. Nhà sư hành hương nổi tiếng là Nghĩa Tịnh đã đi theo con đường này, cũng có một số nhà sư người Việt như Khuy Sung, Đại Thặng Đăng đã học giỏi tiếng Phạm và hoặc đi một mình hoặc đi cùng các nhà sư Trung Quốc sang Â’n Độ.
Những nhà sư này đều không có tên trong Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục. Tất cả điều đó chứng tỏ có một cơ tầng Phật giáo Việt ấn tồn tại trước sau đó rồi mới đến thượng tầng Việt Trung, bắt đầu từ khoảng thế kỷ V – VI về sau và rõ net với Ngô Ngôn Thông (đến Kiến Sơ làng Phù Đổng năm 820) thì Phật giáo Trung Quốc mới chiếm thượng phong. Cho nên, trong thời kỳ trước mới hình thành và tồn tại các thuật ngữ Phật giấo Â’n Độ, Bụt – Chùa – Thầy được hình thành như vậy. Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo âm Hán Việt là Phật – Sư - Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi thầy chùa hơn là Sư ông. Chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nôm ở bắc Đại Việt, chữ Chăm, chữ khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn ngôn ngữ Việt Chăm, Khmer.

3.Phật giáo ảnh hưởng đên một nền kiến trúc chùa, tháp phong phú.

Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn minh.

Khởi thuỷ nơi trú ẩn đầu tiên của con người là ngôi nhà tự nhiên. Đó chính là những hang động những vòm đá. Tuy nhiên ngôi nhà tự nhiên này không thể che chở an toàn cho con người với bao như thứ hiểm hoạ chết chóc. Nào mưa gió sâm sét, nào hổ báo, răn rết… tất cả đều là những mối nguy hiển đối với cuộc sống con người. Bản thân con người là một miếng mồi ngon đối với những ác thú trong tự nhiên. Con người là một con mồi yếu đuối nhất nhưng lại là con mồi có trí khôn. Một sự miêu tả cực kỳ sinh động về trí khôn của con người trong cổ tích Việt Nam – chuyện Trí khôn của ta đây – giữa con hổ và con người. Đây thực sự là một minh họa xuất sắc nhất cho sự khác biệt cơ bản giữa con người và động vật.

Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống, con người phải làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người Việt làm nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay nhà đất thì cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt vẫn còn tồn tại như nguyên mẫu xa xưa. Đó là một ngôi nhà hình chữ nhật thông thường chia làm 3 gian với chiều dài từ 6 – 10 mét, đôi khi có nối các chái. Đó là những ngôi nhà tranh lè tè mái rạ vàng rộm. Những ngôi nhà nông thôn có một mầu như vậy. Đền thờ nhà là gốc đa, và về sau đã có nghè thì cũng chỉ là ngôi nhà hai ba gian đơn sơ như nhà ở. Thế nhưng, một khi Phật giáo du nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp.
Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầuPhật giáo it nhiều, thì xóm làng vẫn còn là một quần thể nhà tranh. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần tụ văn hoá. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước cũng đều ở tại chùa. Ngày nay chợ Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh). Sân khấu rối nước vẫn còn ở chùa Thầy (Hà Tây) với chú tễu và con rồng, là những hình tượng Phật giáo. Dân làng dù nghèo đói đến đâu vẫn chung nhau dựng cho được một ngôi chùa khang trang. Nếu chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới. Phật điệu nhiều bậc bệ cao dần lên tượng trưng núi Tu Di mà người nông dân Việt Nam không biết. Những chư vị Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao là một cách bài trí hoàn toàn khác bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ.

Cảnh quan xóm làng nông thôn đổi sắc với sự xuất hiện của ngôi chùa. Chùa cao ráo hoặc mái rạ hoặc mái ngói với cây tháp gạch (một cây, hai cây hoặc cả một vườn tháp) nổi bật lên giữa một quần thể nhà tranh vách đất.

Chùa Việt không hoàn toàn giống như chùa Trung Quốc. Chùa Trung Quốc là kiến trúc viên lạc gồm nhiều kiến trúc song song với những chiếc sân ngăn cách. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết Chuyết và Minh Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn viện lạc trong bình đồ khá đậm nét.

Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Â’n Độ cho nên hình thành kiến trúc chuôi vồ rất phổ biến trong các chùa làng. Chùa Â’n Độ là mô hình một hang đá gồm có tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng Phật và một số tăng phòng xung quanh. Chuyển sang kiến trúc gỗ thì ngôi nhà ba gian được nối thêm một chuôi vồ, còn các thiền phòng thành những hành lang và nhà Tổ. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình này như chùa Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang…

Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới: chùa chữ “công”. Có thể thấy chùa Diên ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này thường thấy có tường bao quanh và trở thành kiểu nội công ngoại quốc như chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông thường loại hình kiến trúc này của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn.

Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng của chế độ viện lạc Trung Quốc, như chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà Tây, chùa một cột ở Hà Nội.

Trong những ngôi chùa trên, thì chùa Một Cột (chùa Diên Hựu – kéo dài tuổi thọ) được xây dựng năm1049, là một sản phẩm tiêu biểu không thể không đề cập. Buổi khởi dựng của chùa có kiến trúc hình ảnh một bông sen khổng lồ nở trên mặt nước. Đó là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa thế kỷ XI, theo ý tưởng giấc mơ của vua Lý Thái Tông về một bông sen. Năm 1080, vua Lý cho đúc một quả chuông lớn, đánh không kêu, cho là đã thành khí nên không thiêu huỷ, mới đem để ở ruộng chùa. Ruộng ẩm có nhiều rùa chui vào làm tổ nên gọi là chuông Quy Điền cùng với vạc chùa Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh Lâm và tháp chùa báo Thiên hợp thành “tứ đại khí” nổi tiếng, là thành tựu về nghệ thuật và kỹ thuật các thời Lý – Trần. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho đào hồ ở quanh cột đá có toà sen, gọi là hồ Linh Chiểu. Bên ngoài có hồ Bích Trì. Ngôi chùa thời Lý được xây dựng lại ở thời Trần vào năm 1249 và các đời sau thường tu sửa. Năm 1954, chùa được xây dựng lại với quy mô kiểu dáng như ngày nay.

Chùa Một Cột được coi là biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến, là một danh thắng nổi tiếng mà ai đã từng đến Hà Nội không thể không ghé qua. Từ góc độ khoa học, đã có ý kiến cho rằng, chùa Một Cột chính là một loại hình điện thờ tư nhân sớm nhất được xây dựng cho một cá nhân cụ thể – vua ly Thái Tông.

Ngày nay, do mô hình kiến trúc đã hiện đại hoá xuất hiẹn chùa dạng nhà lầu với phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi thuyết pháp cho tín đồ mang tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang tính chất Thiêu Hương, Thượng Điện. Chùa thuộc loại này có thể kể tới những ngôi chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh như chùa Xa Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm.

Chùa Khmer lại thuộc một mô hình khác. Mô hình chùa loại này thông thường là một tứ giác có nhiều tầng bậc chỉ thờ một tượng Thích Ca. Trên các thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc sắc với hai apxara hai bên góc như chùa Svay Ton (chùa Xà Tón) ở An Giang, gợi cho người ta liên tưởng tới dáng dấp cổng tháp Sanchi nổi tiếng ở ấn Độ.
Chùa ở Nam bộ lại có kiến trúc kiểu nhà tứ trụ. Đó là kiểu kiến trúc nhà rường. Bốn cột cách đều nhau ở bốn góc một diện tích hình vuông, từ bốn cột cái các kèo đấm và kèo quyết đưa đều ra bốn hướng. Hình vuông được giải thích đó là một kiểu thức của một ngôi tháp hoặc bắt chước dịch lý gọi là kiểu nhà tứ tượng: Thái Âm – Thiếu Dương – Thái Dương – Thiếu Âm, Pha màu sắc phong thuỷ, ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Chùa ở Nam Bộ, từ đầu thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều cách tân, do vậy chưa định hình được một mẫu mực nhất định.

Chùa ở vùng Huế bắt đầu được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Hoàng và phát triển mạnh ở thời các vua Nguyễn. Chùa ở đây chủ yếu được xây dựng, tu bổ, tôn tạo dưới sự bảo trợ của triều đình và hoàng gia. Về cơ bản, những ngôi chùa ở đây có pha nét kiến trúc cung đình. Có thể kể đến những ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất này như chùa Thiên Mụ, chùa quốc Ân, chùa Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Từ Đàm,….

Trên đây ta nói đến là kiến trúc chùa. Còn kiến trúc tháp thì sao?

Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc thấp cũng cực kỳ phong phú. Phật tử cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương Sơn với net kiến trúc đặc trưng của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.

Không thể nói đến kiến trúc chùa, tháp với những tên tuổi nổi tiếng mà không thể đề cập đến một hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong đóng góp về vật chất của Phật giáo ở Việt Nam. Nói đến chùa tháp là nói đến Tam Thế, Tam Thân, những pho tượng Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa Lâm; A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan; những bộ tượng Cửu Long, tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng phật bát La Hán; tượng thập điện Diêm Vương; tượng Hộ Pháp. Ngoài các tượng Phật còn có các tượng Tổ hay tượng Hậu. Phật điển trong mỗi vùng, mỗi ngôi chùa cụ thể khác nhau hoàn toàn. Tuy nhiên có thể thấy rằng, Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi tiếng như tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (ở Phú Thị, Khoái Châu, Hưng Yên; Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc Ninh) đã được đánh giá là “pho tượng đẹp nhất trên phật điện”, tượng A Di Dà chùa Phật Tích, tượng Tuyết Sơn chùa Tây Phương (Hà Tây) đã đi vào thơ ca, văn học,v.v…và v.v…Bên cạnh đó, chùa Việt còn để lại những pho tượng đồng vang tiếng như hai pho tượng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam), đã trở thành kiệt tác trong làng tượng Phật Việt Nam. Một vài thập niên trở lại đây, du khác cũng như Phật tử khi đến Miền Nam còn nhìn thấy những pho tượng Phật và tượng Quán Thế Âm kích thước đồ sộ bằng thạch cao hay xi măng côt thép được đặt trên những cao điểm, từ xa đã có thể trông thấy.

Nói đến chùa còn phải nói đến Phật điện với những trang trí nghệ thuật trên các chất liệu gỗ, đá, tạo nên những y môn, đồ khí tự, kiệu vàng, cuốn thư, đại tự… Bia đá, câu đối và thậm chí tháp mộ trong nhiều chùa đã để lại những dấu ấn mĩ thuật đặc thù.

Kiến trúc chùa phật ở Việt Nam còn là kiến trúc sinh thái, hoà hợp cùng thiên nhiên. Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xây dựng trên những núi non, sông nước kỳ vĩ. Hệ thống quần thể chùa Hương, Yên Tử, Tây Phương, chùa Thầy, chùa Chấn Quốc, chùa Non Nước v.v… là ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên nhiên với những cây đại thụ, những hương hoa cùng chim chóc càng làm tăng thêm sự linh thiêng của không gian nơi đất Phật.

Đó là một vài đóng góp về văn hoá vật thể của Phật giáo.

Còn về mặt văn hoá phi vật thể, cụ thể về mặt tư tưởng, Phật giáo đã có những ảnh hưởng gì đến văn hoá Việt Nam?


3. Những ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam đó là mang đậm tính dân gian với tư tưởng từ bi cứu khổ cứu nạn.

Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy trừu tượng về phồn thực với hình thức ma thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các hình vễ được khắc trên thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động vật như trâu, bò để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ trụ quan với 3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng thuyết luôn hồi của Phật giáo.

Phật giáo với lý luận nhân quả, rõ ràng là cao siêu hơn ma thuật nhưng cũng không phải hoàn toàn xa lạ với người Việt. Ma thuật đã chứng minh nhân nào quả ấy nhưng Từ Bi mới là tư tưởng chính của Phật giáo được đưa vào hệ tư tưởng Việt.

Tư tưởng Từ Bi của phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học.

Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ. Phật đã hiện lên giúp cho Tấm con cá bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép để đi chơi hội, lấy hoàng tử. Mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi trúc đào khi là quả thị. Chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của phật giáo với hình ảnh ông bụt đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh.

Một câu chuyện khác ở vở chèo Quan Âm Thị Kính nổi tiếng vì lời hay múa đẹp, vì nỗi oan tình được cửa Từ Bi cứu vớt mà không minh được oan. Câu chuyện Phật giáo triều tiên đó phù hợp với người Việt Nam đến nỗi không mấy ai nhớ đó là câu chuyện của Triều Tiên. Bởi lẽ, tư tưởng Từ Bi Bác ái của nhà Phật đã được diễn đạt hết sức dân gian, hết sức Việt Nam và có lẽ Việt Nam hơn Truyện Kiều. Một điều đáng nói ở đây là câu chuyện Quan Âm Thị Kính được thể hiện bằng chèo, một hình thức nghệ thuật dân gian hơn cả văn thơ lục bát vốn cũng mang đậm tính dân gian.

Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát Từ Bi. Chất Từ Bi của nhà Phật thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô danh mà còn đi sâu vào lòng những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo.

Phật giáo vào Việt Nam mang đậm tinh dân gian đến nỗi những người dân mặc dù theo Phật giáo nhưng ít có hiểu biết về phật.

Phật giáo có ảnh hưởng với văn hoá Việt Nam trong suốt triều dài lịch sử đất nước. Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác động mạnh trong xã hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến cho người Việt những ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng làm tăng lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung tâm văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Đến thế kỷ XX Phật giáo với những nhà sư Tây học đã đóng góp một phần nhỏ trong sự thành công của cách mạng, mở ra một nước Việt Nam độc lập. Chỉ những nhà sư và tín đồ đi theo cách mạng mới có tác động tích cực hơn.


4.Những ảnh hưởng của Phật giáo đến tư duy của người Việt Nam.

Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học luôn hoà quện vào nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau.ở đây chung ta lưu ý đến yếu tố triết học về mặt này Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế nhất định.
Tiếp thu phật giáo tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và phạm trù nói nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều nhất.

Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông,Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh ,lão, bệnh ,tử.Bốn chặng đó của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc quan bình thản trước cái chết.Nhiều nhà sư trong Lý – Trần đã có qua niệm như thế.

Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn:sắc ,thụ, tưởng ,thành, thức là những vấn đề có ý thức luận sâu xa.Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý;Từ sự vật khánh quan(Sắc),Con người cảm thụ được(Thụ),Suy nghĩ(Tưởng),Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết(Thức).Ở đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.

Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi.Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận dộng mà không thấy được của cái hình thức vận động sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt khác phải thấy nhận thức được như vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được phương diện cơ bản của sự phát triển sự vật.

Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác.

Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam góp phần làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Viêt Nam.

Tuy vậy Phật giáo cũng có nhứng hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đế tư duy của người việt nam chúng ta.

Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong gia cấp xã hội,do đó không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải chống áp bức, bóc lột vì thế qua niêm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.

Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị-xã hội phải sử dụng các tư tương Nho hay Lão Trang.Nhà sư Viễn Thông cho rằng``Lòng dân là gốc trị loạn``,trong đó``lòng dân`` là khái niệm và tư tưởng của nhà nho; nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói ( nếu dường nối vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giả thích theo quan niêm nhà Phật.

Hạn chế lớn nhất của phật giáo đối với tư duy của người việt nam là quan điểm duy tâm thần bí .Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động

Tóm lại, Phật giáo hoà nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan hệ với các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.Phật giáo đã hướng tới cái đẹp, cái thiện và mang tinh thần yêu nước.Tinh chân, thiện,mĩ được thể hiện rõ trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam.

Nguồn : http://diendankienthuc.net

Bài đăng xem nhiều nhất :